Phân loại cổ phiếu: Những nhóm ngành thường dẫn đầu thị  trường và Các xúc tác thúc đẩy giá cổ phiếu

Khi xem xét mua một cổ phiếu, điều đầu tiên cần làm là phân loại cổ phiếu đang nghiên cứu để có chiến lược đầu tư phù hợp. Trong một bức tranh lớn về bản chất của công ty và ngành nghề mà công ty hoạt động, tôi muốn nhìn thấy kỳ vọng về tiềm năng tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của công ty, rồi tìm hiểu hiểu xem tiềm năng tăng trưởng đó có thể được công nhận rộng rãi hay không. Nhờ đó, các yếu tố tiềm năng này sẽ trở thành xúc tác thúc đẩy giá cổ phiếu so với hiện tại.

Việc phân loại công ty sẽ giúp bạn phân nhóm công ty mà bạn đang cân nhắc trong mối liên quan với những công ty khác trên thị trường, từ đó đưa ra quyết định về việc của cổ phiếu đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ phát triển của nó. Các công ty không nằm im mãi ở một vị trí trong chu kỳ phát triển. Trong những năm qua tôi đã phân tích hàng chục nghìn công ty trên thị trường chứng khoán. Những gì tôi phát hiện ra là các công ty thường có xu hướng rơi vào một trong 6 loại sau:

1. Các công ty dẫn đầu

2. Các công ty đối thủ cạnh tranh hàng đầu

3. Các công ty được các tổ chức yêu thích

4. Các công ty thoát khỏi khó khăn

5. Các cổ phiếu chu kỳ

6. Các cổ phiếu đã từng dẫn đầu và các công ty đã lạc hậu

Các công ty dẫn đầu

Các công ty dẫn đầu là loại cổ phiếu mà tôi yêu thích nhất. Hầu hết các giao dịch của tôi được thực hiện với loại công ty này. Các công ty này có thể tăng trưởng EPS nhanh nhất. Một công ty mạnh nhất trong ngành thường đứng số một, hai hoặc ba về doanh thu và EPS, đang chiếm lĩnh thị phần. Các công ty dẫn đầu thị trường rất dễ nhận ra, nhưng hầu hết các nhà đầu tư đều có tâm lý rất ngần ngại khi quyết định mua chúng. Giá cổ phiếu của các công ty dẫn đầu thường có tỷ lệ tăng mạnh nhất trong giai đoạn đầu của thị trường giá lên. Chúng tăng lên đỉnh cao mới với sức mạnh giá không thể tin được, khiến hầu hết các nhà đầu tư nghĩ rằng các cổ phiếu này đã tăng quá xa; do đó, hầu hết các nhà đầu tư sợ mua những cổ phiếu tốt nhất có khả năng sinh lời cao nhất.

Điều gì đẩy chúng lên cao hơn? Đó chính là các tổ chức, họ đủ hiểu biết về công ty và triển vọng tương lai của nó và đẩy mạnh hoạt động mua vào. Họ không quan tâm đến việc cổ phiếu đã tiến xa như thế nào nhưng họ biết nó sẽ đi đến đâu và họ biết về triển vọng tăng trưởng của nó trong tương lai. Loại tăng trưởng tốt nhất là tăng trưởng có khả năng mở rộng, đó là những công ty giành được thị phần trong một ngành công nghiệp đang phát triển nhanh chóng. Thị trường cho sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty là rất lớn so với quy mô của công ty, những sản phẩm và dịch vụ đó có nhu cầu đủ cao để công ty có thể phát triển với tốc độ cao trong thời gian dài. Những công ty này có sản phẩm và dịch vụ cao cấp, và chúng thường là một phần của một ngành công nghiệp đang phát triển; mặc dù không nhất thiết phải là công ty dẫn đầu trong một ngành hoặc lĩnh vực phát triển nhanh, nhưng nếu là công ty dẫn đầu thì đó chắc chắn là một lợi thế bổ sung rất tốt.

Một công ty đang chiếm lĩnh thị phần trong ngành công nghiệp tăng trưởng chậm cũng có thể tăng trưởng EPS của mình bằng những cách khá độc đáo. Điều quan trọng nhất là công ty có thể tạo ra những lợi ích đáng kể. Một bảng cân đối kế toán tốt, biên lợi nhuận tăng lên, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao, và tỷ lệ nợ hợp lý là tất cả các dấu hiệu của một công ty được quản lý tốt. Một số công ty dẫn đầu tăng trưởng EPS ở mức rất lành mạnh trong thời gian dài trong các ngành công nghiệp tăng trưởng thấp. Tuy nhiên, một công ty đang chiếm lĩnh thị phần hoặc chiếm phần lớn thị phần trong một ngành công nghiệp đang phát triển nhanh có thể tăng EPS của mình với tốc độ chóng mặt.

Các câu hỏi chính nên đặt ra là: Lợi thế cạnh tranh của công ty là gì? Mô hình kinh doanh có thể mở rộng không? Sau đó là vấn đề liệu rằng việc quản lí có đang được thực hiện một cách thành công hay không, việc quản lý phân phối hàng hóa có hiệu quả không, cụ thể là EPS có tiếp tục tăng hay không?

Các cổ phiếu dẫn đầu có khả năng tạo ra tỷ lệ tăng giá lớn trong giai đoạn tăng trưởng cao của chúng, thường tăng trưởng EPS ở mức 20% hoặc cao hơn. Nhiều công ty tăng trưởng EPS trung bình 35 đến 45 % trong vòng 5 hoặc 10 năm kinh doanh tốt nhất. Trong giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất của các cổ phiếu dẫn đầu, một số cổ phiếu tăng trưởng EPS trên 100%. Từ tháng 3 năm 1989 đến tháng 5 năm 1993, Cisco Systems đạt tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận hàng quý trung bình trên 100%. Giá cổ phiếu của Cisco đã tăng hơn 13 lần trong khoảng thời gian đó. Trong những năm đầu thập niên 1980, khi Walmart là một công ty ít được biết đến, chỉ có khối lượng giao dịch 20.000 cổ phiếu một ngày, có mức tăng trưởng EPS trung bình 38% trong 14 quý liên tiếp. Giá cổ phiếu của Walmart đã tăng 1.000 % trong giai đoạn đó. Ngày nay, Walmart giao dịch hơn 7 triệu cổ phiếu mỗi ngày.

Khi cổ phiếu tưởng đắt nhưng thực ra lại rẻ

Các công ty dẫn đầu trong giai đoạn tăng trưởng cao gần như luôn luôn xuất hiện với thị giá có vẻ đắt khi so sánh với một công ty phát triển chậm hơn. Đây là vẻ đẹp của các công ty tăng trưởng với tốc độ cao: những công ty này phát triển nhanh đến mức Phố Wall không thể coi trọng chúng một cách thật hợp lý, nên chúng chưa được định giá đúng, và đó là một lợi thế lớn cho những nhà đầu tư tìm ra chúng. Miễn là công ty có thể duy trì đáng kể sự mở rộng doanh số bán hàng và EPS, giá cổ phiếu sẽ theo sau – có thể không ngay lập tức, nhưng giá cổ phiếu sẽ tăng theo đà tăng trưởng EPS theo thời gian. Trong trường hợp nhanh hơn thì một công ty tăng trưởng sẽ kéo giá cổ phiếu sẽ tăng theo ngay sau đó.

Nhưng đừng quên mặt trái; có nhiều rủi ro trong các công ty tăng trưởng cao. Phố Wall có thể trừng phạt một công ty phát triển nhanh nếu lợi nhuận bị chậm lại ngay cả khi số tiền chỉ là rất nhỏ nhưng lại ảnh hưởng đến sự kỳ vọng của giới đầu tư. Các công ty tăng trưởng cao sống và chết vì kỳ vọng lợi nhuận. Các công ty này phải liên tục đánh bại các dự báo đã được giới đầu tư chấp thuận và kỳ vọng. Là một công ty báo cáo tốt hơn so với lợi nhuận dự kiến, giá cổ phiếu sẽ tăng để đánh bại chính mình trong thời gian tiếp theo. Đên cuối cùng, giá tăng quá cao và công ty bị bỏ rơi. Tuy nhiên, miễn là công ty có thể mang lại lợi nhuận cao và giữ được kỳ vọng tốt, giá cổ phiếu có thể tăng cao và trải qua sự tăng mạnh P/E lên nhiều lần. Mục tiêu của tôi là xác định và đầu tư vào các công ty dẫn đầu tương đối sớm trong giai đoạn tăng trưởng khi lợi nhuận đang tăng tốc.

Các công ty sát thủ

Là những công ty xuất hiện và hoàn toàn thống trị một ngành nghề, có một lợi thế cạnh tranh rõ ràng và bền vững mà các công ty khác trong cùng ngành gần như không thể có được. Những công ty dẫn đầu theo kiểu này được gọi là công ty sát thủ. Một công ty sát thủ là một công ty có thương hiệu và vị thế trên thị trường mạnh đến nỗi sẽ rất khó khăn để cạnh tranh với nó ngay cả khi bạn có nguồn vốn không giới hạn. Một ví dụ tốt là eBay, trang đấu giá trực tuyến mang đến cho nó một lợi thế áp đảo vì người mua và người bán đều muốn tham gia vào thị trường đấu giá lớn nhất với nhiều người tham gia nhất. Hãy xem xét Apple, nó chiếm ưu thế về không gian, thiết lập xu hướng thịnh hành với công nghệ tiên tiến và các sản phẩm thật sự độc đáo. Các công viên giải trí của Disney chắc chắn được xếp hạng là một công ty sát thủ với sự cạnh tranh đáng gờm. Vì vậy, một công ty như Walmart, khi đã có số má trong lĩnh vực bán lẻ, thì nhiều cửa hàng trong khối bán lẻ rất khó để có thể cạnh tranh với gã khổng lồ này.

Những công ty kinh doanh theo chuỗi

Khi một hãng buôn tạo ra một công thức thành công trong một cửa hàng và sau đó lặp lại nó nhiều lần trong các trung tâm mua sắm và tại các địa điểm trên khắp đất nước hoặc trên toàn thế giới, thì gọi đó là một công ty kiểu khuôn bánh, hay công ty tăng trưởng theo chuỗi. Hãy nghĩ về McDonald’s, Walmart, Starbucks, Taco Bell, The Gap, Home Depot, Starbucks, Chili’s, Cracker Barrel, Limited, Dick’s Sporting Goods, Wendy, Outback Steakhouse và Costco Wholesale, đó là những ví dụ tuyệt vời về việc triển khai thành công mô hình kinh doanh dạng khuôn bánh.

Như bạn có thể thấy, có nhiều cái tên đã đạt được thành công với mô hình kinh doanh dạng khuôn làm bánh trong lĩnh vực bán lẻ (VN có MWG, PNJ, FRT…). Với khái niệm này, khi một công ty mở rộng sang các thị trường mới, họ nhanh chóng mở các cửa hàng mới (đặc biệt nếu các cửa hàng này cũng nhanh chóng có doanh số bán hàng tốt) thì lợi nhuận của công ty có thể tăng trưởng bền vững. Loại công ty này là một trong số các công ty dễ phát hiện, dễ giám sát và dễ đầu tư nhất trong giai đoạn tăng trưởng cao của chúng. Lợi nhuận của các công ty này tăng lên trong một thời gian đủ dài để bạn có thể xác định được tăng trưởng EPS trên báo cáo kế toán trong khi họ vẫn có nhiều không gian để tăng trưởng trong tương lai.

Những điểm cần xem xét khi đầu tư vào công ty kinh doanh theo chuỗi

Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm (Same-store sales) là tiêu chí so sánh doanh số giữa các cửa hàng trong chuỗi bán lẻ, là nguồn thông tin thống kê quan trọng sử dung trong phân tích ngành công nghiệp bán lẻ. Thống kê này so sánh doanh số bán hàng của các cửa hàng đã kinh doanh từ một năm trở lên. Từ đây, nhà đầu tư sẽ nhận định được tỷ lệ trong doanh thu mới có bao nhiêu đến từ tăng trưởng doanh số bán hàng và bao nhiêu từ các cửa hàng mới mở cửa.  Đây là một bước quan trọng bởi vì, tuy các cửa hàng mới chiếm đa số trong việc mở rộng và tăng trưởng thị phần của một công ty, nhưng vẫn sẽ có điểm bão hoà (bão hòa tăng trưởng trong tương lai, được xác định nhờ vào con số tăng trưởng các cửa hàng cùng công ty). Bằng những phép so sánh này, các nhà phân tích có thể tính toán được hiệu suất bán hàng so với các đối thủ, qua đó đánh giá được việc mở thêm cửa hàng trong thời điểm được đánh giá có tích cực hay không. Cái bạn muốn thấy ở các công ty này là Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm đang tăng lên mỗi quý. Tốc độ tăng trưởng Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm từ 8-9% đến quanh 40-60% là đủ cao để được coi  là tăng trưởng mạnh, nhưng tỷ lệ tăng trưởng không nên quá cao đến mức không bền vững (từ 25 đến 30 % hoặc nhiều hơn là không bền vững trong dài hạn). Nói chung, tăng trưởng Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm từ 10 % hoặc hơn một chút được coi là lành mạnh.

Yếu tố nào ảnh hưởng đến Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm? Có hai yếu tố chính là giá bán và số lượng khách hàng. Bằng cách đo lường mức tăng hoặc giảm doanh số bán hàng tại các cửa hàng đã mở cửa trên một năm, bạn có thể cảm nhận tốt hơn về cách mà công ty thực sự hoạt động, vì đo lường về Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm giúp loại ra phần số liệu của các cửa hàng đã đóng cửa và các cửa hàng mở mới. Sự gia tăng Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm đồng nghĩa với việc nhiều khách hàng đang mua sản phẩm tại các cửa hàng hoặc họ chi tiêu nhiều hơn so với năm trước hoặc kết hợp cả hai điều này. Đây là dấu hiệu cho thấy những nỗ lực tiếp thị của ban quản lý đang mang lại hiệu quả và thương hiệu đó là phổ biến với người tiêu dùng.

Sự sụt giảm Doanh thu các cửa hàng đã mở trên 1 năm rõ ràng là một vấn đề. Sự suy  yếu có thể đến từ các lý do sau:

-Thương hiệu đang mất dần sức mạnh và mọi người không mua sắm tại các cửa hàng của công ty.

-Nền kinh tế đang xấu đi, và mọi người không quan tâm đến việc mua sắm ở bất cứ đâu.

-Công ty có quá nhiều mặt hàng với giá chiết khấu và lượng tiền kiếm được trên mỗi khách hàng ít hơn bình thường.

Một số công ty tăng trưởng bằng cách nhượng quyền thương mại hoạt động kinh doanh của họ hoặc tăng trưởng nhờ kết hợp các cửa hàng của công ty với nhượng quyền thương mại. Mặc dù chi phí nhượng quyền thương mại có thể đem về các khoản tiền lớn cho công ty nhượng quyền, nhưng dạng thu nhập kiểu này được coi là kém chất lượng hơn so với các cửa hàng do công ty sở hữu vì  mức độ ổn định lợi nhuận là thấp hơn. Nếu công ty mở mới các cửa hàng bằng cách nhượng quyền thương mại với một tỷ lệ tương đối cao thì nguy cơ thất bại của các cửa hàng sẽ tăng cao và có thế gây ra sự thất vọng về tăng trưởng lợi nhuận trong giới đầu tư. Năm 2007, McDonald’s là trong những mô hình kinh doanh chuỗi nhượng quyền thương mại tốt nhất trong lịch sử, khoảng 60 % các nhà hàng McDonald’s được điều hành bởi các nhà nhượng quyền.

Một yếu tố quan trọng khác đối với mô hình kinh doanh  kiểu khuôn bánh là thành tích thành công trong quá khứ ở các địa điểm địa lý đa dạng (Đông Bắc, Nam, Trung Tây, liên quốc gia, vv). Bạn cần phải tìm thấy lấy bằng chứng cho thấy mô hình có thể mở rộng được. Ngoài ra, sự mở rộng các cửa hàng mới quá nhiều, quá nhanh có thể là dấu hiệu  nguy hiểm. Đối với hầu hết các công ty, việc mở hơn 100 cửa hàng mỗi năm sẽ gặp một số khó khăn để có thể duy trì được chúng. Trong Năm 2006, Starbucks đã mở nhiều hơn năm trước 1.102 cửa hàng; Giá cổ phiếu của Starbucks đạt đỉnh và giảm 82% trong 24 tháng sau đó. Đến năm 2011, Starbucks có số cửa hàng mới mở ít hơn so với năm 2008. Các yếu tố quan trọng khác cần xem xét bao gồm so sánh doanh số bán hàng trên mỗi foot vuông và doanh số trên mỗi cửa hàng của công ty  so với các công ty khác trong cùng ngành kinh doanh.

Các đối thủ cạnh tranh hàng đầu, đừng rời mắt khỏi loại cổ phiếu này

Thông thường chỉ có một, hai, hoặc có thể ba công ty thực sự dẫn đầu một nhóm ngành công nghiệp. Nếu tôi yêu cầu bạn đặt tên cho công ty số một và số hai trong lĩnh vực nước giải khát, bạn gần như chắc chắn sẽ nói Coca-Cola và Pepsi. Nếu tôi hỏi bạn công ty  số ba là công ty nào, bạn có thể trả lời nhanh không? Có lẽ là Công ty Cà phê Starbucks và Dunkin ‘Donuts? Hãy nhớ rằng chúng ta đang tìm kiếm những hình mẫu siêu cổ phiếu tiếp theo, đó là những Starbucks, Apple, Google trong tương lai. Năm 1981, MCI Communications đã thách thức công ty dẫn đầu vượt trội thị trường là AT & T. MCI đã ra báo cáo thu nhập tăng mạnh và giá cổ phiếu đã tăng trong 17 tuần và đạt mức đỉnh cao mới vào ngày 2 tháng 4 năm 1981, nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Trong vòng 22 tháng tiếp theo, cổ phiếu của MCI tăng 500%.

Một đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể không phải là công ty cao cấp trong một nhóm ngành công nghiệp hoặc thậm chí không có sản phẩm cao cấp so với các công ty  dẫn đầu thị trường thực sự; thay vào đó, nó xuất hiện đúng nơi vào đúng thời điểm. Mặc dù nó có thể nằm trong cùng ngành công nghiệp đang phát triển nhanh với tư cách là công ty dẫn đầu thị trường, nhưng các sản phẩm hoặc cửa hàng của công ty có thể kém phổ biến hơn hoặc theo cách nào đó kém hơn so với các công ty  dẫn đầu. Những công ty “đối thủ cạnh tranh” này cũng có thể tạo ra tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận cao và nhà đầ tư sở hữu nó sẽ được tận hưởng mức tăng giá rất lớn, mặc dù không bằng các công ty  dẫn đầu. Dẫu vậy, công ty có vị  trí số hai trong một ngành công nghiệp thậm chí có thể lấy thị phần của công ty  dẫn đầu, và trong một số trường hợp nó vươn lên chiếm lấy vị trí số một. Khi  đó Giá cổ phiếu của các đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể tái hiện lại sự tăng giá mạnh mẽ như ở công ty  dần đầu, trong khi giá cổ phiếu các công ty  dẫn đầu sẽ bị giảm.

Từ năm 1990 đến năm 2000, giá cổ phiếu của Home Depot tăng 3700 phần trăm, nhiều hơn 40 % so với tỷ lệ tăng lợi nhuận gộp hàng năm. Trong thời gian đó, cổ phiếu của Lowe chỉ tăng 1.000 phần trăm, chỉ bằng khoảng một phần tư của Home Depot. Sau đó, từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 1 năm 2004, giá cổ phiếu Lowe đã tăng hơn 100% trong khi giá cổ phiếu của Home Depot thực sự giảm, thấp hơn 40% so với mức cao nhất của nó. Dẫn đến kết quả là trong vòng 14 năm, công ty Lowe tăng giá 2,900 % và Home Depot chỉ tăng 1.800 %. Home Depot đã trở thành công ty dẫn đầu trong hơn một thập kỷ, và các nhà đầu tư đã nhìn thấy tiềm năng của nó, và vấn đề giá giảm 40% chỉ xuất hiện khi họ lên tàu. Đáng ra họ  đã có khoản lãi rất lớn nếu lên tàu Lowe thay vì Home depot.

Hãy luôn theo dõi hai hoặc ba cổ phiếu dẫn đầu trong một nhóm ngành. Nhà cung cấp dịch vụ truy cập trực tuyến America Online là công ty  dẫn đầu đạo rõ ràng trên thị trường Internet cho đến khi công cụ tìm kiếm Yahoo ra đời và giành lấy vị  trí dẫn đầu. Google, một đối thủ cạnh tranh của Yahoo, sau đó được phổ biến và bây giờ GG được coi là mạnh số một trong các công cụ tìm kiếm. Một đối thủ cạnh tranh của các công ty  dẫn đầu thị trường có thể cung cấp một cơ hội đầu tư lớn, đặc biệt là nếu nó nằm trong một nhóm ngành công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ. Giống như một tay đua luôn bám theo công ty dẫn đầu, chỉ chờ đợi đúng thời điểm để vượt qua kẻ dẫn đầu. Một đối thủ cạnh tranh hàng đầu có thể bám theo sát gót một công ty dẫn đầu thị trường và cuối cùng chiếm lĩnh thị phần. Bạn nên tập trung vào hai hoặc ba cổ phiếu hàng đầu trong một nhóm, là các công ty dẫn đầu về EPS, doanh thu, lợi nhuận và sức mạnh giá tương đối. Điều này đặc biệt đúng nếu nhóm ngành là một ngành dẫn đầu trong một thị trường bò tót.

Câu chuyện về cuộc chiến của Netflix Goes Public và Blockbuster Tops

Không phải ngẫu nhiên mà chỉ trong vòng 15 phiên giao dịch cổ phiếu Netflix Goes Public có thể vĩnh viễn đá văng Blockbuster Video ra khỏi vị  trí đứng đầu. Tất cả đều có nguyên do của nó. Khả năng cạnh tranh  đã đưa nó lên vị  trí dẫn đầu, Netflix Goes Public cung cấp một giải pháp thuận tiện hơn cho các doanh nghiệp cho thuê phim. Giá cổ phiếu của Blockbuster đang dẫn đầu vào thời điểm mà Netflix xuất hiện, tuy nhiên gần như toàn bộ số tiền từ cổ phiếu của Blockbuster đã bị  rút ra và đổ hết vào đối thủ cạnh tranh mới của nó là Netflix. Tôi có thể thấy rõ câu chuyện này đang diễn ra trong khu phố tôi  ở vì các cửa hàng cho thuê video đã lần lượt bị  đóng cửa, và ngành công nghiệp cho thuê video  bị  loại bỏ khỏi thị trường.

Khi  thị  trường thoát đáy vào 2009, Blockbuster đã gặp trở ngại trong việc phục hồi theo thị  trường do bị  tụt giảm doanh số bán hàng, cổ phiếu Blockbuster giao dịch ở mức rất thấp 0.13 đô la. Đây là một mức tụt giảm kinh hoàng so với mức cao nhất của nó là 18,00 đô la! Trong khi đó, vào ngày 18 tháng 3 năm 2009, chỉ bảy ngày sau khi Nasdaq Composite chạm đáy, và chỉ 10 ngày sau khi chỉ số Dowjone chạm đáy, Netfix đã vụt lên mức giá cao nhất nó từng đạt đến. Và chỉ 17 ngày giao dịch sau đó, giá cổ phiếu của Netflix tiếp tục tăng thêm 20%. Doanh số bán hàng của Netflix đã tăng tốc nhanh chóng trong ba quý trước tương ứng là  11 %, 16 % và 19 %. Thu nhập thậm chí còn tăng trưởng ấn tượng hơn, lần lượt tăng 36%, 38% và 58%. Vào tháng 10 năm 2009, tôi đã mua cổ phần Netflix. Các chỉ số thu nhập, doanh thu, lợi nhuận, lợi tức trên vốn chủ sở hữu và mức nợ của Netflix đều vượt trội so với Blockbuster. Netflix được giao dịch ở mức PE=32 trong khi Blockbuster giao dịch ở mức PE=2. Cổ phiếu nào thực sự là cổ phiếu “rẻ”? Từ thời điểm mà Netflix được chào bán ra công chúng, giá cổ phiếu đã tăng hơn 3.400%. Trong cùng thời gian, giá cổ phiếu của Blockbuster đã mất 99% giá trị.

Các công ty yêu thích của các quỹ đầu tư

Các công ty  được các tổ chức yêu thích còn được gọi là các công ty chất lượng hoặc các cổ phiếu tăng trưởng, nhưng đừng để những tiêu đề đó gây ấn tượng quá nhiều với bạn. Đây là những công ty đã trưởng thành, và chúng chắc chắn không có gì bí mật. Các công ty này thường có lịch sử tốt về doanh thu và mức tăng cổ tức đồng nhất và chúng thường thu hút vốn của các tổ chức bảo thủ do lịch sử đã chứng minh về khả năng tăng thu nhập, mở rộng lợi nhuận và tạo giá trị cho cổ đông. Tăng trưởng thu nhập của loại này nói chung là ở mức độ từ thấp đến trung bình. Các công ty này được coi là những công ty có nhiều khả năng sẽ không bị  loại bỏ khỏi thị  trường. Ví dụ một vài cái tên như Coca-Cola, Johnson & Johnson, và General Electric. Mặc dù tất cả những điều này nghe thì có vẻ cũng hay hay, nhưng có một vấn đề là loại công ty này thường có quy mô lớn và chậm chạp khi chúng đạt đến trạng thái được các tổ chức yêu thích. Mặc dù lợi nhuận của chúng được coi là nhất quán và có chất lượng cao, nhưng thường thì tốc độ tăng trưởng chậm và các công ty này được theo dõi rộng rãi nên có rất ít dư địa để tăng giá nhanh.

Ở một số giai đọan thị trường, các cổ phiếu này có thể có lợi và hoạt động khá tốt. Tuy nhiên, bạn sẽ không có khả năng có được một mức tăng giá thần tốc khi đầu tư vào General Electric hoặc Procter & Gamble. Đôi khi việc quản lý kém, một số sai lầm trong chiến lược, hoặc một sự điều chỉnh mạnh trong thị trường gấu sẽ khiến một số công ty này giảm xuống một cách dứt khoát. Khi các cổ phiếu phục hồi, chúng có thể tạo ra một bước tăng giá tốt sau giai đoạn điều chỉnh.

Các công ty quay đầu thoát khỏi khó khăn

Có thể đầu tư vào các doanh nghiệp lớn khi mà các công ty đó thoát khó khăn và trở lại vị thế của nó. Khi theo đuổi loại công ty này, bạn nên tìm kiếm các công ty có kết quả kinh doanh tăng rất mạnh trong hai hoặc ba quý gần đây nhất. Bạn cần phải tìm thấy ít nhất thu nhập tăng mạnh 25-50%, càng cao càng tốt, đủ để nâng EPS 4 quý đến gần hoặc cao hơn mức cao nhất cũ của nó. Khi nhìn vào các công ty này hãy tự hỏi:

– Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cốt lõi có đang phục hồi hay không và chúng có đang phục hồi về đỉnh hay gần đỉnh không?

– Hay các kết quả kinh doanh chỉ dựa trên cắt giảm chi phí?

– Công ty đang làm gì để tăng lợi nhuận ngoài cắt giảm chi phí, họ có cải tiến năng suất và cắt giảm các hoạt động gây thua lỗ không?

Công ty có bao nhiêu tiền mặt? Mặc dù công ty có thể đã tiêu hết tiền mặt, nhưng bạn có thể cố gắng đánh giá tỷ lệ chi tiêu tiền mặt và khả năng gánh nợ để có được một ý tưởng xem trong công ty  có thể kéo dài hoạt động trong bao lâu khi đang gặp khó khăn. Công ty có bao nhiêu nợ? Nợ ngân hàng là loại nợ tệ nhất và ít thuận lợi hơn nợ trái phiếu. Công ty có thể hoạt động trong bao lâu trước khi nó giải quyết được các vấn đề của nó?

Điều quan trọng là phải theo dõi câu chuyện và xác định xem liệu công ty đang sống lại này có thể hoạt tốt hơn, tệ hơn, hay chỉ như mong đợi. Nếu công ty hoạt động tệ hơn dự kiến ​​thường là lý do để xem xét bán cổ phiếu. Tôi tìm kiếm khả năng tăng trưởng nhanh trong hai quý gần đây nhất, còn tốc độ tăng trưởng trong ba năm và một năm thì thường là âm hoặc tăng trưởng rất chậm. Những câu hỏi quan trọng nhất trước khi mua cổ phiếu là: Cổ phiếu có hoạt động tốt trên thị trường không?  Các chỉ số cơ bản có mạnh không? Điều quan trọng là phải nhìn thấy kết quả gần đây nhất: tăng trưởng 100% trở lên trong hai hoặc ba quý gần nhất và tăng trưởng mạnh so với tốc độ tăng trưởng giai đoạn trước đó.

Hãy nhớ rằng, cổ phiếu không nhất thiết phải nằm trong 1 loại danh mục mãi mãi. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải hiểu được động lực đang diễn ra liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của công ty và tiềm năng tăng trưởng doanh thu của nó. Ví dụ Apple Computer từ một công ty thoát khó khăn trở thành một cổ phiếu tăng trưởng và sau đó trở thành cổ phiếu được các tổ chức yêu thích. Từ năm 2001 đến năm 2003, doanh thu và lợi nhuận bị áp lực nặng nề, dẫn đến EPS không ổn định và trở thành cổ phiếu giảm; giá cổ phiếu của Apple đã giảm hơn 80% từ mức cao nhất của nó. Mọi thứ trở nên ảm đạm đến nỗi khi Michael Dell (nhà sáng lập hãng sản xuất máy tính đối thủ Dell Inc.) được hỏi ông sẽ làm gì nếu ông điều hành Apple, ông trả lời: “Tôi đóng cửa và trả lại tiền cho các cổ đông”. Tuy nhiên, một sản phẩm mới có thể mang lại một sức sống mới cho một công ty đang hoạt động kém. Việc phát hàng iPod vào năm 2001 và iTunes vào năm 2003 thúc đẩy một bước ngoặt lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp này. Từ năm 2003 đến năm 2011, tỷ suất lợi nhuận ròng của Apple hàng năm từ mức chỉ 1,2% tăng một cách ấn tượng lên 23,9%. Trong thời gian đó, doanh thu tăng trưởng trung bình 39 % mỗi năm. Việc mở rộng nhanh chóng doanh thu và lợi nhuận dẫn đến EPS tăng vọt trung bình 114% mỗi năm. Từ mức giá thấp năm 2003, giá cổ phiếu của Apple đã tăng hơn 10.000%; 73% của sự tăng trưởng phi thường đó đến từ các sản phẩm mới ra mắt.

Các cổ phiếu chu kỳ

Mua một cổ phiếu chu kỳ sau vài năm đạt lợi nhuận kỷ lục, khi tỷ lệ P/E từ mức cao giảm xuống mức thấp là phương pháp đầu tư đã được thực tế chứng minh sẽ làm cho bạn cháy 50% tài khoản trong một khoảng thời gian ngắn.

(Peter Lynch)

Một công ty chu kỳ là một công ty nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế hoặc nhạy cảm với sự biến động của giá hàng hóa. Ví dụ như các công ty sản xuất ô tô, các công ty sản xuất thép, các cổ phiếu sản xuất giấy và các công ty hóa chất. Thật thú vị, cổ phiếu chu kỳ có chu kỳ P/E nghịch đảo, có nghĩa là chúng thường có tỷ lệ P/E cao khi chúng bắt đầu bước vào thời kỳ tăng giá và chúng có P/E thấp ở gần cuối chu kỳ tăng giá. Các nhà đầu tư tăng trưởng có thể trở nên bối rối khi cố gắng áp dụng mô hình tăng trưởng EPS vào quá trình lựa chọn các cổ phiếu chu kỳ, và kết quả là các cổ phiếu họ chọn không đáp ứng kỳ vọng tăng giá như khi chọn một công ty sở hữu chuỗi bán lẻ hay một công ty công nghệ sẵn sàng tăng trưởng cao trong nhiều quý tiếp theo, hoặc thậm chí là tiếp tục tăng trưởng trong nhiều năm. Đây là lý do tôi đặt chúng vào một danh mục riêng và áp dụng cách tiếp cận hơi khác so với các loại cổ phiếu có triển vọng tăng trưởng bền vững.

Với các cổ phiếu chu kỳ, có một mẹo là xác định liệu chu kỳ tiếp theo có xảy ra sớm hơn hay muộn hơn bình thường. Hàng tồn kho, nguồn cung và nhu cầu sản phẩm là những biến số quan trọng trong việc phân tích động thái của các cổ phiếu chu kỳ. Khi tỷ lệ P/E của các cổ phiếu chu kỳ giảm xuống rất thấp do lợi nhuận đã tăng mạnh trong nhiều tháng hoặc vài năm, thì đây thường là dấu hiệu cho thấy chúng ở gần cuối chu kỳ tăng trưởng. Còn khi mà cổ phiếu đang có mức P/E siêu cao và bạn không hề nghe thấy gì ngoài việc nhà đầu tư đang phải chịu đựng trước tương lai u ám của công ty hoặc của ngành công nghiệp trong một thời gian dài thì đáy có thể đang ở gần đây.

Tại đáy của cổ phiếu chu kỳ:

1. EPS đang tuột dốc.

2. Công ty không trả cổ tức

 3. Tỷ lệ P / E cao.

4. Tin tức nói chung là xấu (nhưng giá cổ cánh  không giảm :p).

Ở đỉnh của một cổ phiếu chu kỳ:

1. EPS đang tăng lên.

2. Cổ tức đang được nâng lên.

3. P / E thấp.

4. Tin tức nói chung là tốt (nhưng giá cổ phiếu không tăng 

Hãy Tránh xa các công ty tụt hậu

Một công ty tụt hậu là một cổ phiếu cùng nhóm với các công ty dẫn đầu thị trường nhưng có hiệu suất tăng giá thấp hơn và trong hầu hết các trường hợp chúng  có tốc độ tăng trưởng EPS và tăng trưởng doanh thu thấp. Những cổ phiếu này có thể có giai đọan thể hiện tốt thường là trong thời gian rất ngắn khi chúng cố gắng bắt kịp các công ty dẫn đầu ở gần cuối của chu kỳ hoặc tăng nóng trong thời gian ngắn khi các công ty dẫn đầu đã tăng tốc. Tuy nhiên, mức tăng giá ở các cổ phiếu tụt hậu thường mờ nhạt so với mức tăng giá của các công ty dẫn đầu thực sự.

Độ trễ thường xuất hiện ở cổ phiếu tụt hậu nên giá của chúng tương đối rẻ so với các công ty  dẫn đầu và thu hút các nhà đầu tư không có kỹ năng. Đừng để bản thân bị cám dỗ bởi một cổ phiếu có P/E tương đối thấp hoặc một cổ phiếu không được định giá cao như những công ty dẫn đầu trong ngành công nghiệp. Luôn có một lý do giải thích cho việc một cổ phiếu giao dịch ở mức P/E cao và một cổ phiếu khác giao dịch ở mức P/E thấp. Như tôi  đã nói nhiều lần, công ty dẫn đầu ngành công nghiệp có vẻ đắt nhưng thực ra lại đang rẻ và các công ty tụt hậu có vẻ đang rẻ thực ra là một lựa chọn đắt đỏ hơn vì khả năng sinh  lời của nó thua xa công ty  dẫn đầu khiến bạn phải trả thêm một khoản chi  phí cơ hội  không hề nhỏ. 

Nhiều năm qua, có nhiều người nghĩ rằng mua Wild Oats, một đối thủ nhỏ hơn của Whole Foods, là cách tốt hơn để đầu tư vào xu hướng thực phẩm sạch vì chỉ số P/E thấp hơn. Nhưng có một lý do chính đáng cho mức P/E thấp của Wild Oats là nó thất bại trong việc tạo ra sự tăng trưởng lợi nhuận. Các nhà đầu tư tập trung vào cổ phiếu có lợi nhuận tăng trưởng đã kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách sở hữu Whole Foods mặc dù nó được cho là đắt hơn Wild Oats.

Whole Foods hiếm khi giao dịch dưới mức P/E 30 trong giai đoạn tăng trưởng ấn tượng của nó. Trên thực tế, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều nhà đầu tư bán Whole Foods và chuyển sang một công ty bán lẻ ở mức P/E cao như vậy, nhưng nếu họ hiểu được cơ hội tăng trưởng thì P/E cao sẽ không có vấn đề gì nhiều. Chìa khóa cho Whole Foods là khả năng tăng trưởng EPS ở mức cao, trung bình hơn 20%. Bằng cách đó, cổ phiếu đã trả cho các nhà đầu tư một phần thưởng lớn.

Từ năm 2000 đến 2005, giá cổ phiếu Whole Foods tăng gấp tám lần trong khi Nasdaq Composite giảm hơn 50%

Xác định Các nhóm ngành đặc biệt dẫn dầu giai đoạn thị trường tăng trưởng mới

Sự hình thành đáy thị trường gấu thường bắt đầu với dấu hiệu tích lũy trong một số nhóm nhất định. Nói  chung có 3 đến 4 hoặc 8 đến 10 nhóm ngành hoặc nhóm nhỏ dẫn đầu thị trường tăng giá mới. Cũng có thể phân loại các nhóm cổ phiếu trên thị  trường một cách rộng hơn như nhóm tăng trưởng, giá trị, vốn hóa nhỏ, vốn hóa lớn, v.v. Các nhóm cổ phiếu dẫn dắt có thể bắt đầu bước vào giai đoạn bùng nổ giá trước đáy của thị  trường chung. Ví dụ, tại đáy thị trường năm 1974, các cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tích lũy đáng chú ý trong tháng 9 và tháng 10 mặc dù các chỉ số thị trường chính còn chưa mò được đáy cho đến tận tháng 12. Khi một thị trường tăng giá mới bắt đầu vào tháng 3 năm 2003, rõ ràng các nhà đầu tư đã tích lũy cổ phiếu tài chính, năng lượng và vật liệu cơ bản, cũng như midcaps và small-caps trong vài tháng. Làm thế nào để bạn biết nhóm nào đang dẫn đầu? Hãy theo dõi từng cổ phiếu. Tôi thích theo dõi danh sách các cổ phiếu đang ở vùng đỉnh cao mới trong 52 tuần. Các nhóm ngành mà nhiều công ty trong nhóm có cổ phiếu đạt mức cao mới ở đầu giai  đoạn thị trường tăng thường sẽ là nhóm cổ phiếu dẫn dắt. Danh mục đầu tư của bạn nên bao gồm các công ty tốt nhất trong bốn lĩnh vực dẫn đầu. Trong một thị trường tăng giá, một số ngành tăng vài trăm % và những ngành khác hầu như không đánh bại được mức tăng trung bình của thị  trường hoặc thậm chí là giảm giá. Trên thị  trường có nhiều lĩnh vực bao gồm một loạt các công ty và phân nhóm. Các nhóm lớn gồm: Chăm sóc sức khỏe / y tế, công nghệ, dịch vụ, vật liệu cơ bản, tài chính, vận tải, năng lượng và tiện ích.

Trong mỗi ngành có các phân ngành hoặc các nhóm ngành. Ví dụ, trong lĩnh vực y tế, các phân ngành bao gồm thuốc, công nghệ sinh học/công nghệ di truyền, HMO, bệnh viện, nhà điều dưỡng, chăm sóc ngoại trú/chăm sóc tại nhà, thiết bị y tế, dịch vụ y tế và vật tư y tế.

Mua sớm cổ phiếu thuộc các nhóm dẫn đầu trong một thị trường tăng có thể giúp bạn gia tăng đáng kể số vốn đầu tư của mình. Một số nhóm bắt đầu nổi lên vào cuối chu kỳ tăng và có thể dẫn đầu trong xu hướng tăng tiếp theo sau khi thị trường giảm. Điều đáng chú ý là tìm kiếm các nhóm ngành mà trong đó hầu hết các cổ phiếu đều chống lại sự suy giảm của thị  trường chung và sau đó bất ngờ tăng lên mức cao mới trong khi thị trường vẫn đang đi xuống hoặc trong một vài phiên tăng điểm đầu tiên của thị trường.

Các cổ phiếu có sức mạnh tương đối hàng đầu trong các nhóm này thường dẫn đầu nhóm ngay từ sớm và có khả năng được đánh giá cao nhất. Khi bạn thấy một số lượng ngày càng tăng những cái tên trong một ngành cụ thể đạt tới mức cao mới trong 52 tuần (đặc biệt là khi  chúng thoát ra khỏi một thị trường giảm), điều này có thể là một dấu hiệu xác nhận nhóm ngành đó đúng là nhóm dẫn dắt.

Tôi có xu hướng để cho các cổ phiếu riêng lẻ dẫn tôi vào một nhóm ngành. Tôi đã phát hiện ra rằng các cổ phiếu tốt nhất trong nhóm dẫn đầu thị  trường thường xuất hiện trước khi một nhóm cổ phiếu trong ngành tăng nóng. Vì vậy, tôi tập trung vào cổ phiếu riêng lẻ và để nó chỉ cho tôi thấy nhóm ngành nào có khả năng là nhóm dẫn dắt. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Tôi vẫn phải theo dõi những gì đang diễn ra ở cấp độ toàn ngành, và nếu tôi thấy điều gì đó thu hút sự quan tâm của tôi, tôi sẽ nhìn vào các cổ phiếu tạo nên ngành đó và sắp xếp chúng theo tiêu chí của tôi. Tôi nhìn vào những cổ phiếu mạnh nhất: những cổ phiếu có thu nhập và doanh số bán hàng tốt nhất, gần nhất với mức cao mới và cho thấy sức mạnh giá tương đối lớn nhất so với thị trường. Đây là nơi bạn tìm kiếm các công ty dẫn dắt thị trường thực sự.

Lịch sử cho thấy các cổ phiếu chiến thắng lớn có khuynh hướng thuộc một số nhóm ngành nhất định. Các nhóm đã sản sinh số lượng lớn nhất các siêu cổ phiếu bao gồm:

- Tiêu dùng / bán lẻ

- Công nghệ, máy tính, phần mềm và các ngành liên quan

- Thuốc, y tế và công nghệ sinh học

- Giải trí

Sản phẩm mới, cơ hội mới

Sự  thay đổi về chất trong các yếu tố cơ bản của nhóm ngành có thể có tác động đáng kể đến hiệu suất tăng giá của các cổ phiếu trong nhóm. Điều này không có nghĩa là một cổ phiếu phải thuộc về một nhóm ngành mạnh để tạo ra một tiến bộ lớn, cũng ko có nghĩa rằng một đợt thuỷ triều mạnh sẽ nâng tất cả các con tàu lên cao hơn. Hãy tìm kiếm các ngành công nghiệp mới và các công ty có điều kiện thị trường thuận lợi, có chuyên môn sâu, có công nghệ độc quyền hoặc có các thay đổi tích cực như bãi bỏ các quy định vốn bất lợi cho ngành nghề. Hãy tìm những công nghệ mới hoặc các cải tiến công nghệ cũ hứa hẹn giúp mọi người làm việc tốt hơn, sống lâu hơn và tận hưởng cuộc sống nhiều hơn hoặc giúp các công ty cắt giảm chi phí và cải thiện năng suất cũng như hiệu quả. Tìm kiếm cơ hội trong các công ty đang trải qua những thay đổi tích cực. Bạn có thể đọc các tạp chí thương mại công nghiệp. Bạn có thể gọi cho đại diện công ty và yêu cầu xuất bản các ấn phẩm nào để theo kịp các sự kiện và diễn biến trong ngành mới trong lĩnh vực của họ.

Khi một danh mục mới được thành lập hoặc một công ty tạo ra một ngành mới, thường thì đó là một phần mở rộng của một danh mục nhóm rộng hơn. Ví dụ, US Surgical là một công ty sản phẩm y tế. Sau khi đi tiên phong trong lĩnh vực phẫu thuật vào năm 1987, một cách tiếp cận y học hoàn toàn mới đã trở thành lĩnh vực thích hợp của riêng nó. Vào đầu những năm 1990, US Surgical đã giới thiệu Clip Endo, cho phép cắt bỏ túi mật nội soi, và thị trường cho những thiết bị đó bắt đầu phát triển nhanh chóng. Chẳng bao lâu, kỹ thuật nội soi ổ bụng cũng được sử dụng cho các phẫu thuật thoát vị, phụ khoa, cắt bỏ tử cung và các loại phẫu thuật bụng khác. Với sự độc quyền về việc bán thiết bị cho các hoạt động này, US Surgical đã thấy doanh thu của nó tăng 50% vào năm 1990 và 75% trong nửa đầu năm 1991. Thu nhập trong thời gian đó tăng 78% và đến cuối năm họ đã tăng gần gấp đôi doanh thu. Công ty Phẫu thuật Hoa Kỳ đã bán hơn 300 triệu đô la giá trị thiết bị nội soi vào năm 1991 để trở thành một trong những công ty phát triển nhanh nhất tại Hoa Kỳ, với doanh thu 91 triệu đô la. Chỉ vài năm trước đó, công ty Phẫu thuật Hoa Kỳ chỉ bán được 10 triệu đô la công cụ nội soi; đến năm 1992 doanh thu của công ty trong năm đã vượt qua 1 tỷ đô la.

Động lực luân chuyển giữa các nhóm ngành

Các sự kiện trong một nhóm ngành có thể ảnh hưởng đến các nhóm ngành khác. Ví dụ, chiến tranh Iraq và các cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9 có ảnh hưởng đáng kể đến các công ty quân sự và quốc phòng. Điều này lần lượt có ảnh hưởng đến các nhà sản xuất linh kiện điện tử, đặc biệt là các công ty chế tạo các thiết bị đo lường tinh tế. Sự ra đời của máy tính cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty  cung cấp chất bán dẫn. Sự gia tăng của các thiết bị cầm tay nhỏ tạo ra nhu cầu về ổ đĩa cứng một inch. Giá năng lượng cao trong giai đoạn 2006-2008 và việc sử dụng năng lượng trên toàn thế giới ngày càng tăng, cũng như mức độ ô nhiễm gia tăng, đã dẫn đến sự gia tăng của công nghệ năng lượng mặt trời và năng lượng thay thế. Máy tính cá nhân đã tạo ra nhu cầu về phần mềm và thiết bị ngoại vi, từ đó dẫn đến việc sử dụng rộng rãi Internet, tạo ra nhu cầu truy cập băng thông rộng và tốc độ nhanh hơn. Bây giờ chúng ta thấy phương tiện truyền thông xã hội và điện toán đám mây là giới hạn mới. Bạn có thể yên tâm rằng các khu vực tăng trưởng trong tương lai sẽ xuất hiện trong các cổ phiếu hàng đầu của các nhóm ngành hàng đầu.

Khi công ty  đầu ngành hắt hơi, cả nhóm ngành có thể bị cảm lạnh

Cũng giống như các cổ phiếu hàng đầu đôi khi có thể thúc đẩy một nhóm tăng mạnh mẽ, để mắt đến hai hoặc ba công ty hàng đầu trong một nhóm ngành công nghiệp có thể cung cấp một điểm ra vì nhóm ngành có thể hướng đến một rắc rối. Điều quan trọng là phải theo dõi các công ty hàng đầu quan trọng trong các lĩnh vực đang dẫn đầu. Thường thì bạn sẽ thấy một cổ phiếu quan trọng trong một nhóm ngành bị rớt mạnh, và cả nhóm sẽ bị ảnh hưởng. Nếu một hoặc nhiều cổ phiếu quan trọng trong nhóm ngành dẫn đầu bị rớt giá, đó có thể là một cảnh báo rằng cả nhóm sẽ sớm gặp rắc rối. Ngay cả những cổ phiếu nằm ngoài nhóm, chẳng hạn như các nhà cung cấp và khách hàng, có thể cũng phải cùng chia sẻ nỗi đau. Trong lịch sử, hơn 60 phần trăm cổ phiếu siêu hiệu suất là một phần của tiến bộ của nhóm ngành. Hãy bỏ công sức theo dõi các cổ phiếu hàng đầu của ngành để có được cảm nhận về sức mạnh tiềm năng của nhóm đó. Tuy nhiên, nếu một công ty  dẫn đầu chủ chốt gãy trend sau một bước tiến lớn, hãy cẩn thận. Đây thường là triệu chứng ban đầu báo hiệu cả nhóm sắp bị bệnh.

Khi Công nghệ mới trở thành lỗi thời

Mọi đổi mới cuối cùng đều sẽ bị lỗi thời; chúng  đều đi theo con đường thâm nhập, rồi chiếm lĩnh thị trường và cuối cùng bão hòa. Đây là một sự thật vượt thời gian. Ban đầu, mọi đổi mới (đường sắt, ô tô, radio, ti vi, máy tính, Internet, v.v.) bắt đầu ở một mức giá tương đối cao mà chỉ một phân khúc thị trường nhỏ có thể mua được. Tiến bộ trong công nghệ và sản xuất dần dần làm giảm giá tương đối của sản phẩm mới. Điều này dẫn đến sản phẩm thâm nhập sâu rộng vào thị trường, trong đó ngày càng nhiều người dùng tiềm năng có thể có được sản phẩm hoặc dịch vụ mới. Tại một số điểm thị trường sẽ đạt trạng thái bão hòa: tất cả các hộ gia đình đều có thể mua và sử dụng sản phẩm mới; ví dụ tốt là ô tô và máy truyền hình.

Một khi một thị trường đạt đến độ bão hòa, không còn đủ chỗ trống để các công ty tiếp tục xâm chiếm thị  trường. Chiến lược giảm giá bán sản phẩm dần dà trở nên có ít và rất ít tác động tích cực đến doanh số bán hàng của các đơn vị. Lúc này ngành công nghiệp không còn là ngành tăng trưởng nữa. Trong một số trường hợp, tiến bộ công nghệ và sản xuất công nghệ có thể dẫn đến giảm giá vượt quá mức tăng doanh số bán hàng của đơn vị. Trong giai đoạn bão hòa thị trường như vậy, áp lực cạnh tranh thường dẫn đến sụt giảm nghiêm trọng về tỷ suất lợi nhuận. Một ngành công nghiệp tăng trưởng trước đây hướng tới việc mở rộng bán hàng nhanh chóng đi vào một giai đoạn củng cố trong đó cạnh tranh trở nên vô  cùng khốc liệt. Các giai đoạn củng cố này thường đặc trưng bởi tỷ lệ ủng hộ thấp hơn mức trung bình ngành trước đây, sự suy giảm về số lượng các công ty trong ngành và phá sản. Trong những năm 1980 và 1990, ngành công nghiệp công nghệ cao dựa trên PC đã trải qua một quá trình xâm nhập thị trường như vậy. Điều này không khác với ngành công nghiệp ô tô trong những năm 1920 và ngành công nghiệp truyền hình vào những năm 1950; tuy nhiên, chu kỳ đổi mới công nghệ đang chuyển động với tốc độ nhanh hơn, có lẽ là kết quả của việc gia tăng thông tin và việc tham gia vào các thị trường toàn cầu.

>>>Theo Trade Like a Stock Market Wizard, Mark Minervini

Bình luận về báo cáo
HIỆU QUẢ TÍN HIỆU
VN-Index 20.1 %
TopInvest 0 %
Năm 2024 Lãi ròng
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12